mị và a phủ

Tác phẩm gồm hai phần. Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài.Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa.Văn bản SGK thuộc phần đầu Đoạn trích thuộc phần cuối của văn bản diễn tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa đông cứu A A Phủ nhận ra cả mình và Mị đều là nạn nhân đau khổ của cường quyền, họ chỉ mạnh mẽ giải thoát khỏi chốn địa ngục trần gian ấy bằng cách nương tựa vào nhau của những con người cùng cảnh ngộ. III. Tổng hợp - đánh giá Nhân vật Mị sau khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra trong Vợ chồng A Phủ Trọn bộ câu hỏi ôn tập về bài Vợ chồng A Phủ Ngữ văn lớp 12 chọn lọc, cực hay. Với bộ câu hỏi bài Vợ chồng A Phủ này, học sinh sẽ ôn tập, nắm vững kiến thức môn Ngữ văn 12 để đạt điểm cao trong các bài thi môn Ngữ văn 12. (NLĐO)- Hoá thân thành nhân vật Mị trong "Vợ chồng A Phủ" ngoại truyện, Hoàng Thùy Linh muốn nói rằng cô chưa bao giờ sống nhạt và sẽ không cần chờ A Phủ xuất hiện để giải cứu đời mình. Nhân vật Mị của Hoàng Thùy Linh Mị và A Phủ đã tự giải thoát mình nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây, Mị và A Phủ vẫn chưa được thực sự tự do, hạnh phúc. Đến phần hai của tác phẩm, Mị và A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa, họ lại bị đàn áp bởi thế lực của thực dân. hp oppo a3s tiba tiba mati total dan tidak bisa dicas. Tài liệu hướng dẫn lập dàn ý phân tích nhân vật A Phủ chi tiết và cụ thể của Đọc Tài Liệu với hệ thống luận điểm, luận cứ, sơ đồ tư duy kèm theo bài văn mẫu hay và chất lượng giúp các em tham dẫn lập dàn ý phân tích nhân vật A Phủ Vợ chồng A Phủ1. Phân tích đề- Kiểu đề dạng đề nghị luận phân tích nhân vật trong tác phẩm văn học- Vấn đề nghị luận Hình tượng nhân vật A Phủ Các em cần phải nhớ những chi tiết, sự kiện liên quan đến nhân vật và ý nghĩa của nhân vật trong tác phẩm.- Phạm vi dẫn chứng, tư liệu các chi tiết, câu văn, từ ngữ thuộc phạm vi văn bản Vợ chồng A Phủ, mà chủ yếu là nhân vật A Xác lập luận điểm, luận cứ- Luận điểm 1 Hoàn cảnh, xuất thân của A Phủ- Luận điểm 2 Phẩm chất, tính cách tốt đẹp của A Phủ- Luận điểm 3 Số phận bất hạnh- Luận điểm 4 Sức phản kháng mãnh liệt ở A Luận điểm 5 Giác ngộ và đi theo lý tưởng cách Sơ đồ tư duy4. Chi tiết dàn ý phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ* Dàn ý 1 Phân tích nhân vật A Phủa Mở bài- Giới thiệu nhà văn Tô Hoài và truyện ngắn Vợ chồng A Giới thiệu khái quát về nhân vật A Thân bài Phân tích nhân vật A Phủ- Nửa đầu của truyện Vợ chồng A Phủ kể về quãng đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, trong nhà thống lí Pá Tra. Ở phần này, A Phủ là nhân vật phụ, nhưng có tác dụng làm nổi bật hình tượng nhân vật chính là Mị và khắc họa rõ hơn chủ đề tác phẩm. A Phủ là nhân vật được miêu tả sóng đôi với Mị, góp thêm một thân phận người lao động nghèo vào bức tranh hiện thực của tác phẩm.+ A Phủ mồ côi cả cha lẫn mẹ vì nhà bị chết dịch. Có người bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới mười bốn, nhưng A Phủ gan bướng, trốn thoát lên núi, rồi lưu lạc đến Hồng Ngài.+ Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ thành một chàng trai khỏe mạnh "chạy nhanh như ngựa", lao động giỏi, lại"săn bò tót rất thạo". Vì thế, A Phủ trở thành niềm mơ ước của bao cô gái. Họ bảo nhau "Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà".+ Tuy vậy, A Phủ suốt đời làm thuê làm mướn, nghèo đến nỗi không thể nào lấy được vợ và cũng không có nổi cả cái vòng bạc để đi chơi ngày Tết như bao chàng trai Hmông khác.+ Chính hoàn cảnh khắc nghiệt này đã góp phần tạo nên ở A Phủ tính cách gan góc, táo bạo và một sức sống mạnh mẽ. Hình ảnh A Phủ khiến người đọc nhớ tới những nhân vật chàng Mồ Côi, chàng Khó tràn đầy sức lực, lao động giỏi và giàu nghĩa khí trong văn học dân Phủ dám đối mặt với bọn con quan một cách thật hùng dũng và đầy tự tin. Anh sẵn sàng trừng trị kẻ đã phá cuộc vui của bạn bè vì thế, A Phủ bị trói mang đến nhà Phá Tra để xử kiện. Cuộc xử kiện quái lạ này thực chất chỉ là một cuộc tra tấn dã man để cuối cùng A Phủ vô cớ phải trở thành người nô lệ gạt nợ cho nhà thống Bằng ngòi bút miêu tả phong tục bậc thầy, Tô Hoài đã làm hiện rõ trước mắt người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần cách áp bức dã man, trắn trợn kiểu trung cổ của bọn thống trị miền núi. Qua "làn khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn ra các lỗ cửa sổ", cứ hút trong một đợt thuốc phiện Pá Tra lại ra lệnh, trai àng lại từng đợt, từng đợt thay nhau lạy tên thống lí lia lịa rồi xông vào đánh A Phủ. Còn người thanh niên khốn khổ này chỉ biết im lặng chịu đòn "suốt chiều, suốt đêm".=> Như vậy, tuy là một chàng trai tự do của núi rừng, A Phủ vẫn không thoát khỏi nanh vuốt của bọn chúa đất. Từ đây, anh bỗng vĩnh viễn trở thành con trâu, con ngựa, như một nô lệ cho nhà Pá Tra. Hơn nữa, cho đến cả đời con, đời cháu, bao giờ trả hết nợ mới thôi. Và nếu không gặp Mị, chắc chắn A Phủ đã phải chết một cách thê thảm tại nhà thống lí.+ Tinh thần phản kháng là cơ sở để sau này, khi gặp A Châu – người cán bộ của Đảng, A Phủ nhanh chóng giác ngộ cách mạng, tham gia du kích, tích cực đấu tranh để giải phóng mình và giải phóng quê Kết bàiCâu chuyện về A Phủ - người nô lệ gạt nợ đã bổ sung cho câu chuyện của Mị - người con dâu gạt nợ, để hoàn thiện bản án về tội ác của bọn chúa đất đối với những người lao động lương thiện ở miền núi trước Cách mạng, đồng thời cũng cho thấy sức sống mãnh liệt của khảo thêm chi tiết dàn ý phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài để cảm nhận vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của Mị và A Phủ - tiêu biểu cho chân dung con người miền núi Tây Bắc thời kì Cách mạng.* Dàn ý 2 Cảm nhận về nhân vật A Phủa Mở bài– Giới thiệu đôi nét về tác giả Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ– Giới thiệu nhân vật A Thân bài* Xuất thân của A Phủ– Khốn khó, mồ côi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản mường nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ.– Là con người không bao giờ chùn bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.* Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà Thống lí– Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà thống lí, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.– Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc “đốt rừng, cày nương, cuốc mương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt.– Khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời thống lí, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.* Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt– Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”.– Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ”vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình không chịu nhục trước thế lực cường quyền.– Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khụy xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống lí. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.* Đánh giá– Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lí thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo bạo, quyết liệt.– Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các chi tiết cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật.– Cùng với Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con người miền núi Tây Bắc Số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng.– Người đọc cũng mong có một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi họ là những con người không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi nhà lí thống trong đêm tối, cái đêm đen cũng đen như cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì ở đây, người đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lí thống, gặp được ánh sáng của Cách mạng ở cuối đường.» Những bài văn hay phân tích nhân vật A Phủ tuyển chọnc Kết bài- Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị đánh đập, để thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật A Phủ cũng giống như số phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng. Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính khảo bài văn mẫu phân tích hình tượng nhân vật A PhủVợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một trong những tác phẩm được nhắc đến nhiều trong văn chương. Trong đó, nhà văn đã dùng ngòi bút hiện thực của mình để tái hiện lại cuộc sống khổ cực, lầm than của người dân miền núi dưới tay bọn thống trị tàn nhẫn, độc ác. Nếu như Mị là từng là cô gái trẻ yêu đời, giàu ước mơ thì A Phủ trước khi rơi vào tay thống lí Pá Tra cũng từng là một chàng trai trẻ rất gan dạ giàu lí tưởng sống cao đẹp. Dù cuộc sống của A Phủ cũng chẳng hơn gì Mị, và dù nhà văn không dành nhiều từ ngữ cho A Phủ giống như Mị, nhưng anh vẫn là tâm điểm mà Tô Hoài muốn hướng đến để đại diện cho bao người nông dân cùng chất của A Phủ được thâu tóm qua lời nói của những cô gái trong làng “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. A Phủ không những khỏe mạnh, chịu khó mà còn hiền lành, tốt bụng. Nhưng A Phủ đã không còn bố mẹ, nay ruộng cũng không có, bạc lại càng không, thậm chí A Phủ còn chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác trong ngày Tết đến, A Phủ không thể lấy nổi vợ. Nhưng không phải vì thế mà A Phủ bi quan buồn bã. Ngược lại, anh vẫn vẫn cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng. Những câu văn chân thật của Tô Hoài đã cho người đọc có cảm nhận tốt về một chàng trai hiền lành, dễ mến, tuy sống nghèo nhưng luôn lạc quan, yêu đời và không ngừng ước những thế, A Phủ còn rất gan dạ khi dám một mình đứng lên đánh A Sử – con trai của nhà có uy quyền to nhất nơi này. Và đương nhiên, A Phủ bị bắt. Xuyên suốt cuộc xử kiện, bao nhiêu con người nằm đó phè phỡn hút thuốc phiện, còn A Phủ quỳ dưới sàn nhà, chịu những trận đòn liên tiếp. Anh im lặng, mọi người chỉ nghe tiếng đánh huỳnh huỵch mà không nghe thấy tiếng A Phủ kêu nửa lời. Đánh xong, hút thuốc xong, thống lí đưa ra lí lẽ “nhân đạo” tha tội chết cho A Phủ để anh được sống mà nộp vạ. Thống lí “thương tình” cho A Phủ vay một trăm bạc trắng để trang trải cho cuộc xử kiện. Nhưng đó cũng chính là con đường mà A Phủ trở thành nô lệ cho nhà hắn. A Phủ cam chịu và chấp nhận mọi sự sắp đặt của thống lí. Từ đó, bao nhiêu công việc trong nhà, cày ruộng, chăn trâu chăn bò, vào rừng săn hổ… một mình A Phủ bôn ba làm lại một lần nữa, A Phủ rơi vào vòng dây trói của nhà thống lí. A Phủ trong lúc trông bò ngựa vì mải mê bẫy chim đã để hổ bắt mất một con bò. Thống lí bắt A Phủ trói đứng vào một cây cột trong góc nhà bằng dây mây quấn từ đầu đến vai, chờ khi nào bắ được hổ mới tha. Nhưng A Sử và lính dõng của thống lí không lùng bắn được hổ. A Phủ vẫn bị trói. Cuộc đời khổ cực nay lại càng khổ hơn khi ngày này qua ngày khác, A Phủ phải đứng đấy trong sự giam cầm, đánh đập. Lúc này, anh vẫn im lặng. Sự im lặng khiến con người ta phải khâm phục vì sự gan dạ, kiên định của chàng trai miền núi.» Văn mẫu hay phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ chồng A PhủMãi cho tới khi giọt nước mắt của A Phủ rơi xuống, làm lay động trái tim người đọc. Một con người vốn dĩ can đảm và sắt đá, hổ cũng không sợ, mà nay lại phải khóc trong sự giam cầm của những kẻ gian ác, bất nhân. Nhưng Tô Hoài không chỉ rõ lý do vì sao A Phủ lại khóc. Trong đêm tối chỉ có Mị nhìn thấy giọt nước mắt ấy. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. A Phủ khóc cho mình, cho một đời trai trẻ đang tung hoành là thế, nay bị trói đứng, bị chết mòn trong tay những kẻ tiểu nhân, hay khóc cho thân phận của Mị, cho người con gái đang tuổi thanh xuân nhưng cũng phải vùi mình ở nơi đây? Dù khóc vì điều gì đi chăng nữa, những giọt nước mắt của A Phủ cũng chính là tiếng lòng của nhà văn, là sự cảm thương sâu sắc mà ông muốn gửi đến những mảnh đời bất hạnh, những con người cùng cảnh ngộ với A Phủ, với Mị. Họ không bị trói trong nhà thống lí, nhưng sống trong cùng một chế độ, họ cũng đang chết mòn, đang khóc thầm bên bờ vực thẳm của khổ đau và tuyệt vọng. Nhưng may thay, giọt nước mắt của A Phủ đã làm thức tỉnh con người Mị, khiến Mị can đảm đi đến quyết định cởi trói cho A Phủ và cùng A Phủ trốn thoát khỏi nơi này. Họ đã đi đến một miền đất mới, họ trở thành vợ chồng và cùng liên kết, tập hợp mọi người để đứng lên đấu tranh, giải phóng cho đồng bào khỏi nanh vuốt của bọn thống trị tham lam, ác vậy, Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng lên hình tượng nhân vật A Phủ với những đức tính tiêu biểu của người dân miền núi can đảm, gan dạ, yêu đời và giàu lòng nhân ái. Sống cam chịu nhưng không khuất phục, A Phủ đã cùng Mị thoát khỏi vòng dây trói được coi là định mệnh của nhà thống lí Pá Tra – kẻ đại diện cho giai cấp cầm quyền. Họ đã cùng nhau đứng lên, kêu gọi mọi người cùng hợp sức đấu tranh giành lại quyền độc lập, tự do cho chính mình. Đó cũng chính là lời kêu gọi tha thiết của nhà văn khi xây dựng nên nhân vật A Phủ hiền lành, dễ bài văn hay lớp 12 / Đọc Tài Liệu Văn mẫu lớp 12 - Tài liệu hướng dẫn lập dàn ý phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ, tham khảo một số bài văn mẫu hay để mở rộng vốn từ và cách trình bày khi đi vào làm bài phân tích nhân vật dẫn lập dàn ýphân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ1. Phân tích đề- Kiểu bài dạng bài phân tích nhân vật trong tác phẩm văn Vấn đề nghị luận Tâm trạng, hành động, phẩm chất, tính cách của nhân vật Mị Các em cần phải nhớ những chi tiết, sự kiện liên quan đến nhân vật và ý nghĩa đối với tác phẩm.- Phạm vi dẫn chứng, tư liệu các căn cứ, hình ảnh, chi tiết, câu nói... thuộc phạm vi văn bản đoạn trích Vợ chồng A Phủ, mà chủ yếu là về nhân vật Xác lập luận điểm, luận cứ- Luận điểm 1 Mị vốn là cô gái có những phẩm chất tốt đẹp+ Trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo+ Luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu+ Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự Luận điểm 2 Số phận bi thảm.+ Là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi+ Bị hành hạ về mặt thể xác+ Bị đầu độc, nhục mạ tinh thần- Luận điểm 3 Sức sống tiềm tàng trong Mị.+ Trong đêm tình mùa xuân+ Trong đêm cắt dây trói cứu A Phủ3. Sơ đồ tư duySơ đồ tư duy phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ4. Chi tiết dàn ý phân tích nhân vật Mịa Mở bài- Tô Hoài là nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những vùng miền, ông có vốn ngôn ngữ phong phú, lối trần thuật tự Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của Tô Hoài, truyện viết về những con người Tây Bắc tiềm tàng sức sống đã vùng lên đấu tranh chống lại bọn thống Nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp Thân bài* Mị vốn là cô gái có những phẩm chất tốt đẹp- Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra+ Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê”+ Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.+ Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.* Nạn nhân của những áp bức bất công- Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra bị “cúng trình ma” nhà thống lí, làm con dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”, bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, ...- Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, ... đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn tay ...không biết là sương hay nắng”.- Mị sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.* Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị- Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy+ Âm thanh cuộc sống bên ngoài tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình,... ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.+ Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.+ Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do.+ Tinh thần phản kháng mạnh mẽ lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối, nổi loạn muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.+ Khi bị trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.=> Nhận xét Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng+ Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.+ Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau,... phải chết”.+ Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ+ Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.=> Nhận xét Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền Kết bài- Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Nghệ thuật ngôn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây thể bạn quan tâm Hướng dẫn lập dàn ý phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong "Vợ chồng A Phủ".Bài văn đạt điểm cao phân tích nhân vật Mị của học sinh lớp 12 THPT Kim LiênTô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Sáng tạo của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Theo ông ”Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không thể tầm thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc". Ông cũng có một vốn hiểu biết phong phú sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Chính vì như vậy, tác phẩm của ông luôn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” viết năm 1953 của nhà văn là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế của ông đối với mảnh đất Tây Bắc. Tô Hoài đã có công khai khẩn cho một vùng đất bị văn học bỏ quên. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận khổ đau của những người dân nghèo miền núi cao Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất, đồng thời, tác phẩm là bài ca về sức sống và vẻ đẹp của con người nơi đây mà tiêu biểu là nhân vật đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu về Mị qua hai nghịch cảnh. Một bên là cô Mị ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Một bên là cảnh nhà thống lí giàu có, người ra vào tấp nập. Mị là một con người mà như lẫn vào các vật vô tri, nghĩa là con người mà không khác gì đồ vật, kiếp người mà không khác gì kiếp vật. Đây là thủ pháp tạo tình huống “có vấn đề” trong lối kể chuyện truyền thống giúp người đọc tham gia vào hành trình tìm hiểu những bí ẩn về số phận nhân vật và những vẻ đẹp ẩn sâu trong những con người ấy mà ở đây chính là về hết, Mị là một cô gái có số phận khổ đau. Chỉ vì một món nợ truyền kiếp mà Mị phải vào làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, phải sống một kiếp người khổ đau. Về nhà thống lí, Mị bị chà đạp, vùi dập, cướp đoạt tất cả mọi quyền. Mị sống như kiếp vật. Bề ngoài là con dâu nhưng thực chất là con nợ. Nỗi khổ đau nhất ở Mị là con nợ thông thường dù khốn khổ đến mấy còn có hi vọng thoát khỏi thân phận con nợ sau khi đã trả hết nợ cho chủ, oái ăm thay, Mị là con nợ nhưng cũng là con dâu con dâu gạt nợ đã bị “cúng trình ma nhà nó rồi, chạy đâu cho thoát, chỉ còn cách chịu đựng đến tàn đời mà thôi”. Thực ra, Mị đã sớm linh cảm thấy cuộc đời đau khổ của mình nên ngay từ đầu Mị đã van xin cha “Đừng bán con cho nhà giàu”. Mị sẽ tự cuốc nương, trồng ngô để thay cha trả nợ. Thế nhưng nguyện vọng chính đáng ấy không thể chống lại âm mưu thâm độc của cha con nhà thống ngày tháng sống trong thân phận làm dâu gạt nợ là những chuỗi ngày dằng dặc đau thương của Mị, Mị sống trong tủi cực, đúng nghĩa với một nô lệ khổ sai. Mị bị biến thành một thứ công cụ lao động trong tay cha con thống lí. Suốt năm suốt tháng Mị cực nhục âm thầm trong công việc, “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, se đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời như thế”. Những việc giống nhau, tiếp nhau sẽ vẽ ra trước mặt mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm thủ pháp so sánh tương đồng, nhà văn đã làm nổi bật cuộc đời cơ cực của Mị, Mị nghĩ mình cũng là con trâu, con ngựa vì là con trâu, con ngựa thì phải đổi ở tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, là trâu ngựa thì chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Thậm chí “con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm còn được đứng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa đến nỗi ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi. Lời cắt nghĩa ấy của tác giả đã minh giải tình trạng Mị bị đày đọa đến mức tê liệt. Càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Cửa buồng Mị ở âm u lạnh lẽo, nó kín mít chỉ có một cái cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay nắng. Mị cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi. Đây là chi tiết gây ám ảnh về một địa ngục trần gian ngột ngạt bức bối. Đó là một ẩn dụ, bế tắc về một cuộc đời, một số phận, con dâu mà như tù nhân khổ sai. Nhà văn đã cất lên tiếng nói nhân quyền của con người để vạch trần tố cáo tội ác của bọn chúa đất vô đạo ở miền núi đã làm khô cạn nhựa sống, làm tàn lụi cả niềm vui sống của những con người tha thiết yêu đời, yêu tự còn bị trói buộc bởi nhiều thế lực thân quyền, cường quyền, nam quyền. Vì quyền lực mà cha con thống lí đã bắt Mị làm dâu gạt nợ. Ở nhà thống Lí, Mị bị tước đoạt cả những quyền tự do tối thiểu. Mị không được đi chơi xuân trong khi A Sử đã có vợ hắn vẫn đi chơi xuân, hắn còn trực rình bắt mấy người đàn bà nữa về làm vợ… Những thế lực vô hình thi nhau hù dọa đây, đã có lần Mị muốn chết nhưng không thể bởi lòng hiếu thảo không cho phép Mị quyên sinh. Giờ đây, khi không còn cái gì ngăn cản nữa thì Mị lại buông xuôi, sống vật vờ như cái xác không hồn. Chính lúc này, hoàn cảnh của người con gái ấy càng đáng thương hơn. Bởi trước đây, khi Mị muốn chết là muốn chống lại hoàn cảnh, đó là biểu hiện của lòng ham sống, còn giờ đây khi không tưởng đến cái chết có nghĩa là lòng yêu tha thiết cuộc sống đã không còn. Đời Mị lặng lẽ trôi đi. Ách áp bức dai dẳng và nặng nề của bọn thực dân chúa đất miền núi đã khiến cho Mị hoàn toàn tê liệt. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, dù Mị là cô gái mang số phận khổ đau, dù cuộc sống của Mị trong nhà thống Lí là những chuỗi ngày dài đau khổ thì ở Mị vẫn sáng lên những vẻ đẹp không thể bị mờ đi, mòn đi bởi những khổ đau của số phận. Mị vốn là một người con gái đẹp. Nhà văn không trực tiếp miêu tả mà gợi vẻ xinh đẹp ấy qua lời kể “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” Mị còn có tài thổi sáo hay. Mỗi lần Mị uốn chiếc là trên môi, thổi là còn hay hơn thổi sáo “Trai làng nhiều người mê, nhiều đến thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”. Tài năng âm nhạc ấy báo hiệu vẻ đẹp tràn đầy của tâm hồn. Trái tim Mị đã bao lần rung lên trước những âm thanh, những tín hiệu hẹn khảo thêmBài văn mẫu phân tích tác phẩm Vợ chồng A PhủTuyển chọn những bài phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ chồng A Phủ hay nhấtKhông chỉ xinh đẹp, Mị còn là người con hiếu thảo, khi cha mẹ Mị mang nợ nhà thống Lí, Mị đã xin cha được làm nương thay cha trả nợ. Nhưng khi nguyện vọng không thành thì Mị đã báo hiếu cho cha bằng cả cuộc đời con gái tươi trẻ đẹp đẽ của chừng sức sống trong Mị đã lụi tàn, nhưng không! Vượt lên trên số phận, hoàn cảnh sống khổ đau tủi nhục, trong chiều sâu dáng hình câm lặng héo úa kia vẫn tiềm tàn một sức sống mạnh mẽ. Sức sống ấy vẫn âm thầm, ấm nóng như một viên than hồng bị tro tàn bao phủ. Nó chỉ chờ dịp là bùng lên mạnh mẽ, dữ sống tiềm tàng vốn có trong Mị, nó đa dạng và bí ẩn. Sức sống ấy ẩn ngay trong nỗi buồn, trong sự cam chịu, trong hành động phản kháng tìm đến nắm lá ngón tự tử ở thời gian đầu làm dâu gạt nợ nhà thống Lí. Sức sống ấy bùng lên mạnh mẽ trong sự trỗi dậy của lòng yêu đời, khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân. Khát vọng ấy vốn bị vùi dập bấy lâu nay trong một tâm hồn chai sạn vì đau khổ và nó bất chợt cháy lên thật nồng nàn, xa xót trong đêm tình mùa xuân. Có một bước chuyển, bước ngoặt tâm lý rất lớn diễn ra trong tâm hồn Mị. Nhà văn không hề đơn giản trong miêu tả tâm hồn mà còn sự dẫn dắt chuyển biến bất ngờ, hợp lý. Sự chuyển biến tâm lý lớn lao ấy bắt nguồn từ nhiều duyên cơ. Trước hết là do đất trời vào xuân, lòng người rạo rực đón xuân “Hồng Ngài năm ấy ăn Tết vào giữa lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi, xòe trên những mỏm đá như những con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Bức tranh có tác động rất lớn đến tâm hồn Mị. Cùng với bức tranh xuân, một tác nhân nữa là hơi rượu “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát rồi say đến lịm người”. Phải chăng, Mị đang uống cái đắng cay của phần đời đã qua, hay uống cái khát khao của phần đời chưa đến. Cuộc rượu tàn lúc nào Mị không hề hay biết, người về hết chỉ còn mình Mị trở lại giữa nhà. Thế rồi Mị nhớ lại ngày xưa, Mị còn trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên. Mị khao khát hạnh phúc… Và cuối cùng có thể nói, tiếng sáo có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị hồi sinh. Nhà văn Tô Hoài đã dụng công miêu tả tiếng sáo. Thoạt đầu, xa xa từ ngoài đầu núi vọng lại, Mị nghe tiếng sáo “thiết tha bổi hổi”, Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Lát sau tiếng sáo “văng vẳng gọi bạn đầu làng” lòng Mị đang sống về ngày trước. Rồi lòng Mị vẫn đi theo tiếng sáo gọi bạn yêu. Tiếng sáo nặng khát vọng hạnh phúc lớn dần, chiếm trọn vẹn tâm hồn Mị. Như vậy, trong đêm tình mùa xuân, hơi rượu và tiếng sáo gọi bạn tình, Mị đã vượt ra khỏi trạng thái tê dại, vô cảm bấy lâu nay để thức dậy, để hồi sinh. Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả những yếu tố liên quan bên ngoài để tác động đến nội tâm nhân vật ở thời khắc này lòng Mị đầy mâu thuẫn, lòng Mị phơi phới trở lại, Mị muốn đi chơi xuân nhưng cũng chính lúc này “Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Nghịch cảnh ấy cho ta thấy khi niềm khao khát sống hồi sinh thì tự nó sẽ có một mãnh lực, xung đột một mất, một còn với trạng thái vô nghĩa lý của thực tại. Ngòi bút của Tô Hoài đã lách sâu vào những khe kín của tâm hồn nhân vật để phát hiện những nét đẹp, nét riêng trong tính cách nhân vật. Sức sống tiềm tàng còn được thể hiện ở hành động đi chơi xuân. Từ ý nghĩ đã trở thành hành động, Mị chuẩn bị kỹ lưỡng, chăm chút, đường hoàng, Mị quấn lại tóc, xắn một miếng mỡ bỏ vào đèn, khêu đèn cho sáng. Hành động ấy cho thấy Mị như đang thắp lên ngọn đèn trong cuộc đời triền miên tăm tối của mình. Mị với thêm chiếc váy cổ hoa ở trong vách… Mị làm như một người tự do đường hoàng, không hề đếm xỉa đến sự có mặt của A Sử. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã khát vọng tình yêu càng bộc lộ mãnh liệt. Trong hoàn cảnh bị A Sử trói đứng, tóc mị xõa xuống, hắn quấn luôn tóc mị vào cột làm cho mị không nói không nghiêng được. Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ đang chật vật bất lực. Suốt đêm, Mị đau như dứt từng miếng thịt, lúc mê lúc tỉnh thế nhưng tâm hồn Mị vẫn mê mải đi theo tiếng sáo gọi bạn theo những cuộc chơi, những đám chơi. Như vậy, A Sử và thế lực tàn bạo ở miền núi có thể trói buộc được thể xác Mị nhưng không thể nào trói buộc được tâm hồn Mị, không thể nào vùi dập được sức sống bất diệt trong Mị. Chính trong đêm tình mùa xuân, ý thức về quyền sống đã trở về trong tâm hồn Mị. Có thể nói, sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân còn có những biểu hiện cảm động. Mị đã xót xa đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Buổi sáng âm u trong căn nhà gỗ, Mị bàng hoàng tỉnh giữa bốn bề im lặng, Mị xót thương những người đàn bà cùng cảnh ngộ như mình, không biết các chị vợ anh, vợ chú có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay là cũng đang bị trói như Mị. “Mị nghẹn ngào khi nhớ lại câu chuyện về một người đàn bà cũng bị chết vì trói đứng ở nhà thống Lý". Những biểu hiện của sự sống tiềm tàng trong đêm tình mùa xuân này chính là cơ sở tạo nên sự vùng dậy, tháo cũi xổ lồng của Mị trong đêm đông sau điểm của sự sống tiềm tàng chính là sự vùng dậy của Mị trong đêm đông cùng hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ. Cả Mị và A Phủ hai con người đau khổ, có những nét tương đồng vì hoàn cảnh, số phận, đều là nạn nhân của nhà thống Lí. Nếu Mị là con dâu gạt nợ nhà thống Lí thì A Phủ là người ở trừ nợ vì đánh bại con quan làng. Năm ấy A Phủ chăn bò ngoài rừng, vì mải bẫy nhím, chẳng may bị hổ vồ mất một con bò, vì thế A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng vào cột. Chính nỗi bất hạnh của A Phủ, chính sự tàn độc của cha con thống Lí đã làm thức dậy tinh thần phản kháng của Mị. Mấy đêm đầu A Phủ bị trói, Mị vẫn trở dậy, vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, Mị chỉ còn biết ở với ngọn lửa, nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Chi tiết này khiến cho ta phải rùng mình trước một số phận bị đày đọa, bị vùi dập tới mức cực một đêm nữa, Mị trở dậy thổi lửa hơ tay. Khi ngọn lửa bùng lên cùng lúc Mị lé mắt trông xa thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở “một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là chi tiết đầu mối của sự đột biến trong tâm lí của Mị. Nhà văn Tô Hoài đã tỏ ra rất am hiểu những chuyển biến kỳ diệu trong tâm hồn nhân vật. Chính giọt nước mắt của chàng trai người Mông gan góc, quả cảm đã tác động trực tiếp đến Mị. Mị nhớ mình, thương mình ngày trước cũng bị trói đứng trong cái nhà này, tóc quấn vào cột, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được, đắng chát và bất lực, khác gì A Phủ bây giờ. Mị thương người giờ đây cũng bị đày đọa như mình. Mị thương những tôi tớ khác, lòng thương lớn dần thành nỗi hận, biến thành lòng căm thù cha con thống Lí, “Chúng nó thật độc ác”. Cái thương, cái giận lớn dần lấn át nỗi sợ hãi, cuối cùng biến thành hành động Mị cầm dao, cắt dây cởi trói cứu A Phủ, cùng A Phủ chạy khỏi Hồng Ngài là hành động bộc phát nhưng vẫn nằm trong logic, sức sống nội tâm của nhân vật. Đó là đỉnh điểm của sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do, khát vọng về quyền sống đã bùng lên, tất cả tạo nên sức mạnh trong hành động tháo cũi xổ lồng của Mị và A Phủ. Mị không những cắt dây cởi trói cứu A Phủ mà còn cắt đứt sợi dây vô hình trói buộc cuộc đời Mị với nhà thống Lí. So với Chị Dậu trong Tắt Đèn, anh Pha trong Bước đường cùng hay Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên… thì kết cục của Mị đã tươi sáng hơn Mị đã vùng dậy, tự giải thoát bằng chính sức mạnh của vậy, qua vẻ đẹp về ngoại hình, tấm lòng hiếu thảo cùng sức sống tiềm tàng mãnh liệt, tất cả đã tạo nên một vẻ đẹp riêng của Mị – một cô gái có số phận khổ đau nhưng luôn mang trong mình vẻ đẹp về cả nội tâm lẫn bên khắc họa thành công về số phận khổ đau và vẻ đẹp riêng có của Mị, ở Mị nhà văn chú trọng lối văn miêu tả những diễn biến tâm lý trong thế giới nội tâm đa dạng, bí ẩn, từ đó, khắc họa lên tính cách nhân vật. Điều đó rất phù hợp trong việc xây dựng nhân vật nữ tính. Bên cạnh đó, Mị còn được nhà văn thể hiện rất độc đáo mang phong cách tiêu biểu của người Mông âm thầm mà mãnh liệt, mộc mạc đơn sơ mà dữ dội khôn tác phẩm, Mị hiện lên như một điển hình cho số phận khổ đau của đồng bào vùng núi Tây Bắc dưới ách cai trị của bọn thực dân, chúa đất miền núi. Đồng thời, nhân vật Mị cũng là điển hình cho bài ca về khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, ý thức vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự số đề văn tương tự bạn nên tham khảoPhân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuânCảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị trong Vợ chồng A PhủVới những thông tin gợi ý cách làm, dàn ý phân tích nhân vật Mị chi tiết trên đây do Đọc Tài Liệu biên soạn và tổng hợp, các em hoàn toàn có thể triển khai thành một bài văn hoàn chỉnh theo văn phong và ý hiểu của chính mình. Ngoài ra, các em cũng nên đọc thêm nhiều bài văn mẫu hay để mở rộng vốn ngôn ngữ và cách trình bày. Chúc các em học tốt !

mị và a phủ