nguyên tắc phối hợp kháng sinh trong thú y

6. Do yếu tố nội sinh. Sau khi đã loại trừ các nguyên nhân, trầm cảm sẽ được xác định xảy ra do yếu tố nội sinh. Nguyên nhân này đề cập đến sự rối loạn của các chất dẫn truyền thần kinh trong não bộ như serotonin, dopamin, noreadrenalin, acetylcholin, GABA. nguyên tắc phối hợp kháng sinh trong chăn nuôi thú y. 1. Kháng sinh là vũ khí quan trọng để chống lại VI KHUẨN gây bệnh. 2. Để sử dụng kháng sinh đúng thì: 3. Tuy nhiên trong những trường hợp cần điều trị ngay trước khi phân lập vi khuẩn và làm kháng sinh đồ thì phải dựa thể làm tăng tính nhạy cảm của các dị nguyên và tính trầm trọng của các phản ứng phản vệ: Tương tác thuốc - sinh lý, bệnh lý - Metoprolol là thuốc chẹn beta, còn Adrenalin là thuốc cường beta: tương tác của 2 thuốc có tác dụng đối kháng trên cùng một thụ thể 2. Nguyên tắc sử dụng kháng sinh: Nhanh: để tránh phát tán mầm bệnh. Mạnh: bắt đầu bằng liều có hiệu lực (tương đối cao), và tiếp theo là liều duy trì (thấp hơn). Lâu: đảm bảo duy trì nồng độ kháng sinh có hiệu lực trong 5 ngày. 3. Cách sử dụng kháng sinh hiệu quả: Vi khuẩn kháng kháng sinh, vấn nạn do đâu? 2022-09-24 15:15:00. Trên thế giới mỗi năm có gần 1 triệu trẻ em tử vong do vi khuẩn kháng kháng sinh. 1/3 bệnh nhân nhiễm vi khuẩn kháng kháng sinh. Như vậy vấn nạn kháng kháng sinh đang là vấn đề hp oppo a3s tiba tiba mati total dan tidak bisa dicas. Trong chẩn đoán bệnh thú y, những trường hợp cần điều trị ngay. Trước khi phân lập vi khuẩn và làm kháng sinh đồ thì phải dựa vào kinh nghiệm và sự hiểu biết về nguyên tắc phối hợp kháng sinh. Trong bài viết này tôi sẽ hướng dẫn cách lựa chon kháng sinh phù hợp và hiệu đang xem Cách phối hợp kháng sinh trong thú yPhân loại kháng sinh như thế nào? Nhóm β-lactam Penicillin; Ampicillin; Amoxicillin; các Cephalosporin Nhóm Aminoglycosides Treptomycin; Kanamycin; Gentamycin Nhóm polypeptides Colistin Nhóm Macrolides Tylosin; Spiramycin; rifamicin Nhóm Pleuromutilins Tiamulin Nhóm Lincosamides Lincomycin; tác động giống nhóm Macrolides về cơ chế tác dụng, phổ kháng khuẩn và đặc điểm sử dụng lâm sàng – cùng họ hàng Nhóm Tetracyclines Tetracyclin; Chlotetracyclin; oxytetracyclin; Doxycyclin. Nhóm Phenicols Chloramphenicol; Thiamfenicol; Flofenicol Nhóm quinolon Norfloxacin; enrofloxacin Nhóm Sulfonamides Sulfaguanidin, Sulfadiazin… Nhóm Diaminopyrimidin TrimethoprimĐăng ký nhận quà tặng các bệnh trên heo tại tác động của các loại kháng sinh khác thêm Hướng Dẫn Cách Đăng Xuất Messenger Trên Iphone 4, Cách Để Đăng Xuất Messenger Trên Iphone Hoặc Ipadkháng sinhNguyên tắc phối trộn kháng sinhphối hợp kháng sinhkháng sinh kết hợpTa chỉ dùng kháng sinh hãm khuẩn trong trường hợp cơ thể còn sức, vì thuốc chỉ làm vi khuẩn ngưng phát triển, yếu đi và hệ thống đề kháng của cơ thể sẽ làm nhiệm vụ tiêu diệt chúng. Nếu nhiễm khuẩn nặng, cơ thể bị yếu, phải dùng kháng sinh diệt khuẩn. Một số ví dụ phối hợp thường gặpß-lactamin + aminoglycoside Penicillin + Treptomycin;ß-lactamin + polypeptides Amoxicillin + Colistin; Ampicillin + colistin. Tetracyclines + Macrolides Doxycyclin + TylosinLiên hệ tư vấn miễn phíTRUNG TÂM THƯƠNG MẠI & GIẢI PHÁP THÚ Y “Trợ thủ đắc lực của nhà chăn nuôi”Bác sỹ thú y Phạm Xuân TrịnhMail book CategoriesBỆNH GIA SÚC, CƠ HỘI KINH DOANH, Thuốc Bột Tagskháng sinh, nguyên tắc phối hợp kháng sinh, phâm loại kháng sinh, phân nhóm kháng sinh, thú y, thuốc chữa bệnh, thuốc thú y Post navigationPrevious PostPrevious TỤ HUYẾT TRÙNG GIA CẦM TOI GÀNext PostNext Thuốc Thú Y Trịnh Thuỷ Ninh Bình Bảng nguyên tắc phối hợp kháng sinh trong Thú y Việc phối hợp kháng sinh nhằm 3 mục đích Tăng khả năng diệt khuẩn. Điều trị trường hợp nhiễm nhiều loại vi khuẩn. Giảm khả năng xuất hiện chủng vi khuẩn đề kháng. Tuy nhiên, kháng sinh có nhiều nhóm, nhiều loại nên việc nhớ để phối hợp đúng là điều không dễ dàng kể cả bác sĩ y khoa. Thực tế trong công tác điều trị, người ta “gom” kháng sinh làm 2 nhóm lớn Nhóm A Beta-lactam Penicillin, Ampicillin, Amoxcillin, Cephalosporin, Cephalexin, Cephalothin, Cephalor… Aminosid Streptomycin, Gentamycin, Neomycin, Kanamycin, Apramycin, Spectinomycin… Nhóm B Phenicol Chloramphenicol đã cấm sử dụng, Thiamphenicol, Florphenicol Cyclin Tetracyclin, Oxytetracyclin OTC, Chlortetracyclin CTC, Doxycycline Macrolid Erythromycin, Spiramycin, Oleandomycin, Tylosin, Tiamulin Nguyên tắc phối hợp A+A phối hợp 2 kháng sinh cùng trong nhóm A tác dụng hiệp đồng tăng tác dụng; Ví dụ điển hình Peni + Strep B+B phối hợp 2 kháng sinh cùng trong nhóm B không hiệp đồng, không đối kháng, chỉ tác dụng đơn thuần “việc ai nấy làm” A+B phối hợp 1 kháng sinh nhóm A & 1 kháng sinh nhóm B tác dụng đối kháng mất tác dụng Dung môi hòa tan, tá dược… là những yếu tố không kém phần quan trọng nên khuyến cáo đối với người chưa có kinh nghiệm là nên sử dụng kháng sinh, sulfamid đã được các nhà sản xuất phối hợp sẵn. Ví dụ Shotapen LA – Virbac Peni + Strep, Codexin – Bio Ampi + Colistin, Septryl 240 – Minh Dũng Sulfamethoxypyridazin + Trimethoprim, Genta-Tylo, Linco-Spec, Amox-Genta, Ampi-Kana, Tylo-Spec, DOC OTC + Colistin + Dexa, Sone CTC + Thiam + Dexa… Vì phối hợp kháng sinh có nghĩa số kháng sinh dùng nhiều hơn đưa đến giá cả điều trị tăng cao và nhất là tỷ lệ bị tác dụng phụ do thuốc nhiều hơn nên sự phối hợp đòi hỏi thận trọng và cân nhắc tối đa. Cần khu trú một số trường hợp cần phối hợp kháng sinh, có thể kể như sau Khi bị nhiễm nhiều loại vi khuẩn như bị áp-xe não có khi phải phối hợp 3 loại kháng sinh thuộc loại đặc biệt vancomycin + cefotaxim + metronidazol. Sốc nhiễm khuẩn hoặc nhiễm khuẩn nặng chờ kết quả xét nghiệm thường phối hợp beta–lactam + aminosid. Nhiễm khuẩn giảm bạch cầu hoặc bị suy giảm miễn dịch có khi phải phối hợp tobramycin + ticarcillin. Viêm màng trong tim penicillin + aminosid hoặc đối phó với đề kháng vancomycin + aminosid. Lao, brucellose điều trị lao thường phải phối hợp 3 kháng sinh. Nhiễm loại vi khuẩn đặc biệt pseudomonas aeruginosa, enterobacter, serratia, citrobacter, listeria, enterococcus do các loại vi khuẩn này rất dễ đột biến tạo chủng đề kháng như trị có khi dùng ceftazidim + amikacin. Khi dùng loại kháng sinh cần phải phối hợp với kháng sinh khác vì nếu dùng một mình kháng sinh này rất dễ bị đề kháng rifampicin, acid fusidic, fosfomycin. Hai kháng sinh phối hợp nên cùng loại tác dụng, hoặc cùng có tác dụng hãm khuẩn hoặc cùng có tác dụng diệt khuẩn – Hãm khuẩn còn được gọi kìm khuẩn, tĩnh khuẩn, trụ khuẩn hay “ngưng trùng”, bacteriostatic là đặc tính của loại kháng sinh chỉ ức chế sự phát triển của vi khuẩn chứ không tiêu diệt. – Diệt khuẩn bactericidal là đặc tính của kháng sinh có khả năng tiêu diệt vi khuẩn. Ta chỉ dùng kháng sinh hãm khuẩn trong trường hợp cơ thể còn sức, vì thuốc chỉ làm vi khuẩn ngưng phát triển, yếu đi và hệ thống đề kháng của cơ thể sẽ làm nhiệm vụ tiêu diệt chúng. Nếu bị nhiễm khuẩn nặng, cơ thể bị suy yếu, bắt buộc phải dùng kháng sinh diệt khuẩn. Không phối hợp kháng sinh hãm khuẩn và kháng sinh diệt khuẩn vì sẽ đưa đến hiệu ứng đối kháng. Ví dụ kháng sinh nhóm beta-lactam trong đó có cefalexin và amoxicillin có tác dụng diệt khuẩn do ngăn chặn sự tổng hợp lớp vỏ bao bọc của vi khuẩn, vi khuẩn không có vỏ bọc cơ thể nó sẽ vỡ tung xem như bị tiêu diệt, và tác dụng diệt khuẩn này chỉ phát huy khi vi khuẩn còn có sự phát triển tốt, tổng hợp được lớp vỏ. Nếu phối hợp kháng sinh beta–lactam với một kháng sinh có tác dụng hãm khuẩn như tetracyclin, cloramphenicol… xem như beta–lactam bị đối kháng không còn tác dụng. Bởi vì kháng sinh hãm khuẩn thường tác động đến ribosom một bộ phận trong cơ thể vi khuẩn giúp nó tổng hợp protein để phát triển, tăng trưởng làm ribosom không hoạt động tức là làm cho vi khuẩn không còn phát triển, tuy không chết nhưng ngưng phát triển, không tiếp tục tổng hợp lớp vỏ bọc là đích tác dụng mà beta–lactam tác động vào. Cơ chế tác động của một số loại kháng sinh đối với vi khuẩn Ở đây, cần nêu một số trường hợp đặc biệt. Kháng sinh nhóm aminosid như streptomycin, gentamycin, kanamycin… tuy tác động vào ribosom nhưng lại có tác dụng diệt khuẩn chứ không có tác dụng hãm khuẩn như tetracyclin. Vì vậy, có thể phối hợp thuốc nhóm beta–lactam với nhóm aminosid. Kháng sinh cotrim còn gọi là cotrimoxazol, biệt dược thông dụng bactrim thực sự là thuốc phối hợp hai kháng sinh sulfamethoxazol là một sulfamid với một kháng sinh khác là trimethoprim. Sulfamethoxazol và trimethoprin là hai kháng sinh hãm khuẩn nhưng khi phối hợp trong cotrim thì lại đạt được tác dụng hiệp đồng synergism là diệt khuẩn. Erythromycin được xem là kháng sinh hãm khuẩn vì tác động trên ribosom của vi khuẩn nhưng nếu khi dùng, đạt được nồng độ thuốc trong máu cao sẽ có tác dụng diệt khuẩn. Vì vậy, có khi erythromycin được phối hợp với kháng sinh diệt khuẩn. Nếu không rõ điều vừa kể, ta sẽ thắc mắc đối với chỉ định phối hợp erythromycin với cotrim cotrim như đã trình bày, phối hợp sẵn hai kháng sinh đạt được tác dụng diệt khuẩn, trong nhiều trường hợp chỉ dùng một mình cotrim đủ để trị bệnh nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, có một số nhà điều trị vẫn phối hợp nó với kháng sinh khác, thậm chí thắc mắc với thuốc đã phối hợp sẵn do Việt Nam sản xuất có tên erybactrim, sulferycin. Hai kháng sinh phối hợp không thuộc cùng một cơ chế tác dụng hoặc không gây độc trên cùng một cơ quan Ví dụ như không nên phối hợp hai beta-lactam vì cùng tác động trên vỏ của tế bào vi khuẩn hoặc không phối hợp hai kháng sinh cùng nhóm aminosid vì nhóm aminosid gây độc đối với tai và thận, nếu phối hợp hai kháng sinh cùng nhóm sẽ làm điếc và suy thận trầm trọng trong khi hiệu quả trị bệnh lại không tăng. Hai kháng sinh phối hợp không kích thích sự đề kháng Ví dụ như không phối hợp cefoxitin với penicillin vì cefoxitin kích thích vi khuẩn đề kháng với penicillin bằng cách tiết ra enzym phân hủy kháng sinh phối hợp với nó. Những điều trình bày ở trên cho thấy lý do vì sao có khuyến cáo chỉ sử dụng kháng sinh khi có chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ thú y. Bởi vì có nhiều vấn đề liên quan đến sử dụng kháng sinh chỉ có người sành chuyên môn am tường, trong đó có phối hợp kháng sinh. Đối với thắc mắc về sự phối hợp cephalexin hoặc amoxicillin với cotrim, sự phối hợp này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc phối hợp hai kháng sinh cùng loại diệt khuẩn chỉ có vấn đề cần xem xét là sự phối hợp này có thật sự cần thiết. Còn vấn đề phối hợp penicillin và streptomycin, tuy không trái với nguyên tắc phối hợp kháng sinh nhưng được khuyến cáo không nên phối hợp bởi vì streptomycin hiện nay là loại kháng sinh dùng rất hạn chế chỉ dùng làm thuốc kháng lao, thay vì phối hợp ta đã có nhiều kháng sinh mới dùng đơn độc đạt hiệu quả hơn so với sự phối hợp này. Hiệu quả điều trị bệnh do nhiễm vi khuẩn phụ thuộc Phát hiện bệnh kịp thời sớm; Chẩn đoán chính xác đúng bệnh; Sử dụng kháng sinh đúng nguyên tắc lựa chọn kháng sinh phù hợp mầm bệnh, dùng đúng liều lượng & liệu trình; trợ sức, trợ lực, chăm sóc tốt. Phối Hợp Kháng Sinh Vừa qua mình thấy những người làm chuyên môn thú y bán thuốc cho người chăn nuôi mà phối hợp rất nhiều loại thuốc kháng sinh nhiều gói nhưng cuối cùng là đối kháng giữa các nhóm kháng sinh nên hiệu quả điều trị lại không như mong muốn, dẫn tới tăng chi phí trong chăn nuôi. Tôi đã tổng hợp và viết ra một sơ đồ về nguyên tắc phối hợp kháng sinh mọi người hãy nghiên cứu nhé! Dễ lắm in ra và khi cần bỏ ra tra còn ai học thuộc được thì tốt quá Sự phối hợp kháng sinh phải nhằm đạt 3 mục đích Mở rộng phổ kháng khuẩn. Loại trừ nguy cơ xuất hiện chủng đề kháng. Đạt được tác dụng diệt khuẩn nhanh và mạnh. Phối hợp kháng sinh làm số kháng sinh cần sử dụng nhiều hơn đưa đến giá cả điều trị tăng cao và nhất là tỷ lệ bị tác dụng phụ do thuốc nhiều hơn nên cần thận trọng và cân nhắc tối đa. Nên khu trú một số trường hợp cần phối hợp kháng sinh, có thể kể như sau Khi bị nhiễm nhiều loại vi khuẩn như bị áp-xe não, viêm màng não có khi phải phối hợp 3 loại kháng sinh. Sốc nhiễm khuẩn hoặc nhiễm khuẩn nặng trong khi chờ kết quả xét nghiệm cấy vi khuẩn, kháng sinh đồ thường phối hợp beta-lactam + aminosid. Nhiễm khuẩn giảm bạch cầu hoặc bị suy giảm miễn dịch có khi phải phối hợp tobramycin + ticarcillin. Viêm nội tâm mạc. Lao, brucellose. Nhiễm loại vi khuẩn đặc biệt pseudomonas aeruginosa, enterobacter, serratia, citrobacter, listeria, enterococcus do các loại vi khuẩn này rất dễ đột biến tạo chủng đề kháng nên cần phối hợp nhiều kháng sinh vì nếu dùng một loại kháng sinh rất dễ bị đề kháng. Nguyên tắc phối hợp kháng sinh Hai kháng sinh phối hợp nên cùng nhóm tác dụng, hoặc cùng có tác dụng kìm khuẩn hoặc cùng có tác dụng diệt khuẩn. Phối hợp hai kháng sinh cùng nhóm tác dụng cùng kìm khuẩn hoặc cùng diệt khuẩn tạo ra sức mạnh tổng hợp synergism, trái lại phối hợp kháng sinh thuộc 2 nhóm tác dụng khác nhau kìm khuẩn với diệt khuẩn và ngược lại sẽ tạo ra sự đối kháng antagonism. Không phối hợp kháng sinh kìm khuẩn và kháng sinh diệt khuẩn vì sẽ đưa đến hiệu ứng đối kháng. Lấy ví dụ, kháng sinh nhóm beta-lactam trong đó có cefalexin và amoxicillin có tác dụng diệt khuẩn do ngăn chặn sự tổng hợp lớp vỏ bao bọc của vi khuẩn, vi khuẩn không có vỏ bọc cơ thể nó sẽ vỡ tung xem như bị tiêu diệt, và tác dụng diệt khuẩn này chỉ phát huy khi vi khuẩn còn có sự phát triển tốt, tổng hợp được lớp vỏ. Nếu phối hợp kháng sinh beta-lactam với một kháng sinh có tác dụng hãm khuẩn như tetracyclin, cloramphenicol... xem như beta-lactam bị đối kháng không còn tác dụng. Bởi vì kháng sinh hãm khuẩn thường tác động đến ribosom một bộ phận trong cơ thể vi khuẩn giúp nó tổng hợp protein để phát triển, tăng trưởng làm ribosom không hoạt động tức là làm cho vi khuẩn không còn phát triển, tuy không chết nhưng ngưng phát triển, không tiếp tục tổng hợp lớp vỏ bọc là đích tác dụng mà beta-lactam tác động vào. Hai kháng sinh phối hợp không thuộc cùng một cơ chế tác dụng hoặc không gây độc trên cùng một cơ quan. Ví dụ như không nên phối hợp hai beta-lactam vì cùng tác động trên vỏ của tế bào vi khuẩn hoặc không phối hợp hai kháng sinh cùng nhóm aminosid vì nhóm aminosid gây độc đối với tai và thận, nếu phối hợp hai kháng sinh cùng nhóm aminosid sẽ làm điếc và suy thận trầm trọng trong khi hiệu quả trị bệnh lại không tăng. Hai kháng sinh phối hợp không kích thích sự đề kháng của vi trùng. Ví dụ như không phối hợp cefoxitin với penicillin vì cefoxitin kích thích vi khuẩn đề kháng với penicillin bằng cách tiết ra enzym phân hủy kháng sinh phối hợp với nó. Kháng sinh nhóm aminosid như streptomycin, gentamycin, kanamycin... tuy tác động vào ribosom nhưng lại có tác dụng diệt khuẩn chứ không có tác dụng kìm khuẩn như tetracyclin. Vì vậy, có thể phối hợp thuốc nhóm beta-lactam với nhóm aminosid. Kháng sinh cotrim còn gọi là cotrimoxazol, biệt dược thông dụng là bactrim thực sự là thuốc phối hợp hai kháng sinh sulfamethoxazol là một sulfamid với một kháng sinh khác là trimethoprim. Sulfamethoxazol và trimethoprin là hai kháng sinh thuộc nhóm kìm khuẩn nhưng khi phối hợp trong Cotrim thì lại đạt được tác dụng hiệp đồng synergism là diệt khuẩn. Erythromycin được xem là kháng sinh kìm khuẩn vì tác động trên ribosom của vi khuẩn nhưng nếu khi dùng, đạt được nồng độ thuốc trong máu cao sẽ có tác dụng diệt khuẩn. Vì vậy, có khi erythromycin được phối hợp với kháng sinh diệt khuẩn. Nếu không rõ điều vừa kể, ta sẽ thắc mắc đối với chỉ định phối hợp erythromycin với cotrim cotrim như đã trình bày, phối hợp sẵn hai kháng sinh đạt được tác dụng diệt khuẩn, trong nhiều trường hợp chỉ dùng một mình cotrim đủ để trị bệnh nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, có một số nhà điều trị vẫn phối hợp nó với kháng sinh khác, thậm chí thắc mắc với thuốc đã phối hợp sẵn do Việt Nam sản xuất có tên erybactrim, sulferycin. Đối với thắc mắc về sự phối hợp cephalexin hoặc amoxicillin với cotrim, sự phối hợp này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc phối hợp hai kháng sinh cùng loại diệt khuẩn chỉ có vấn đề cần xem xét là sự phối hợp này có thật sự cần thiết hay không. Còn vấn đề phối hợp penicillin và streptomycin, tuy không trái với nguyên tắc phối hợp kháng sinh nhưng được khuyến cáo không nên dùng bởi vì streptomycin hiện nay là loại kháng sinh được khuyên dùng rất hạn chế chỉ dùng làm thuốc kháng lao, thay vì phối hợp ta đã có nhiều kháng sinh mới dùng đơn độc đạt hiệu quả hơn so với sự phối hợp này. Những điều trình bày ở trên cho thấy lý do vì sao có khuyến cáo chỉ sử dụng kháng sinh khi có chỉ định và hướng dẫn của thầy thuốc điều trị. Bởi vì có nhiều vấn đề liên quan đến sử dụng kháng sinh chỉ có người có thầy thuốc am tường, trong đó có vấn đề phối hợp kháng sinh. Một số nhóm kháng sinh quan trọng Là nhóm kháng sinh đầu tiên được phát hiện ra. Ban đầu penicillin được chiết xuất từ nấm penicillium notatum. Bây giờ penicillin được tổng hợp nhiều từ một số loại hóa chất khác. Các dòng penicillin gồm có Penicillin G và penicillin V là 2 loại được tổng hợp lần đầu tiên. Aminopenicillin là penicillin bán tổng hợp gồm có ampicillin, amoxillin... Các penicillin kháng enzyme penicillinase như oxacillin, methicillin, chloxacillin... Penicilin chuyên dùng để điều trị vi khuẩn nhóm pseudomonas như piperacillin, cacbercillin, ticarcillin. Các penicillin kết hợp chất ức chế enzyme βlactamase Augmentine, amoxiklav... Gồm 4 thế hệ I, II, III, IV. Thế hệ I, II chủ yếu để điều trị các vi khuẩn Gram+; thế hệ III, IV chủ yếu để điều trị vi khuẩn Gram-. Tetracyclin, oxytetracycline, chlorotetracycline, doxycyclin... có hoạt phổ rộng các vi khuẩn Gram + và Gram-, Rickettsia, Xoắn khuẩn,... Chỉ định điều trị bằng cách kết hợp với các kháng sinh khác để điều trị các bệnh Brucella, tả, sốt định kỳ, lậu cầu, giang mai, viêm đường tiêu hoá, sốt rét,... Erythromycin, spiramycin, azthromycin, rovamycin, tylosin... Là kháng sinh có hoạt phổ kháng khuẩn rộng, tác dụng mạnh hơn trên gram âm, nhóm này hầu hết được thải trừ qua thận. Độc tính trên thận gây hoại tử ống thận cấp và thính giác gây ù tai, điếc nếu dùng kéo dài. Các thuốc của nhóm như gentamycin, novomycin......các thuốc này hầu hết không hấp thu qua đường tiêu hóa, nếu dùng điều trị nhiễm khuẩn toàn thân thì phải dùng dạng tiêm Như Lincocine... Nhóm quinolon ciprofloxacin, ciprofloxacin-d8, oxolinic acid, danofloxacin, enrofloxacin, difloxacin, sarafloxacin, ofloxacin, norfloxacin... Có từ nguồn gốc vi sinh, có phổ tác dụng rộng, chủ yếu trên vi khuẩn Gram-, theo nguồn gốc vi sinh có thể chia ra Thuốc chiết xuất từ nấm Streptomyces Streptomicin, Dihydrostreptomycin, Kanamycin, Neomycin, Paromomycin,... Thuốc chiết xuất từ Microspora Gentamicin, Sisimicin,... Sau này, khi thay đổi cấu trúc của các hợp chất tự nhiên nói trên, người ta thu được các thuốc bán tổng hợp như Amikacin, Netilmicin, Dibekacin,... Các Chloramphenicol Phenicol Nhóm này bao gồm 02 kháng sinh Chloramphenicol thường được gọi là Chlorocid, được phân lập từ nấm Streptomyces Venezaclae, nay sản xuất bằng phương pháp tổng hợp toàn phần. Có tác dụng điều trị bệnh thương hàn và sốt phát ban do Rickettsia là tác nhân truyền bệnh rận, chấy Thiamphenicol là dẫn chất của Chloramphenicol, khi thay thế gốc Nitro bằng gốc Metylsulfon, dung nạp tốt hơn Chloramphenicol.... *Bạn biết gì về kháng sinh Kháng sinh là các chất có khả năng ức chế hoặc tiêu diệt sự phát triển của vi khuẩn. Về nguồn gốc, kháng sinh được chiết xuất từ các vi sinh vật, nấm hoặc xạ khuẩn hoặc thông qua quá trình tổng hợp hoặc bán tổng hợp hóa học. Sau khi đi vào cơ thể và vào được các tế bào, kháng sinh sẽ được đưa tới đích tác động là các thành phần cấu tạo cơ bản của tế bào vi khuẩn và phát huy tác dụng kìm hãm sự sinh trưởng và phát triển hoặc tiêu diệt vi khuẩn từ đó điều trị các bệnh lý do vi khuẩn gây ra. – Phân loại kháng sinh Để phân loại được kháng sinh hiện nay có khá nhiều cách, có thể dựa vào cơ chế tác dụng, công thức cấu tạo, hoặc nguồn gốc,…. dưới đây là một số cách phân loại kháng sinh bạn có thể cập nhật. – Dựa vào khả năng tác dụng Gồm 2 loại kháng sinh là kháng sinh có tác dụng diệt khuẩn và kháng sinh có tác dụng kìm khuẩn. Kháng sinh diệt khuẩn sẽ hủy hoại vĩnh viễn các loại vi khuẩn như một số kháng sinh B-lactamin, aminoglucozid, colistin, bacitracin,… Kháng sinh có tác dụng kìm khuẩn sẽ ức chế sự phát triển của vi khuẩn như tetracyclin, lincosamis, macrolid…. Tuy nhiên trên thực tế cũng sẽ có một số kháng sinh có tác dụng kìm khuẩn ở nồng độ thấp và diệt khuẩn ở nồng độ cao. – Dựa vào phổ tác dụng Các kháng sinh có phổ tác dụng hẹp như các penicilin tự nhiên, streptomycin. Các kháng sinh có phổ tác dụng rộng, có khả năng tác động trên cả vi khuẩn gram +, -, đơn bào, virus như tetrecyclin, chloramphenicol, các imidazol… Nhóm kháng sinh đường tiêu hóa dùng trị bệnh nhiễm khuẩn trong ống tiêu hóa. Nhóm thuốc này không được hấp thu qua ống tiêu hóa sulphaguanidin, suphaquinosalin, streptomycin uống,… Nhóm kháng sinh chống lao, kháng sinh trị nấm,… – Dựa theo nguồn gốc Kháng sinh được tổng hoặc bán tổng hợp từ các hóa dược Kháng sinh có nguồn gốc từ vi sinh vật, xạ khuẩn, nấm – Dựa vào cơ chế tác dụng Kháng sinh ức chế sự tổng hợp của thành tế bào Với cơ chế tác động diệt khuẩn thông qua ức chế cạnh tranh các enzym transpeptidase do đó làm ngăn chặn các liên kết tạo nên thành tế bào, dẫn đến quá trình tổng hợp vách tế bào của vi khuẩn bị chặn lại và tế bào vi khuẩn sẽ chết. Nhóm này bao gồm 2 kháng sinh thường được sử dụng là Beta lactam và Glycopeptid. Kháng sinh ức chế sự tổng hợp protein Ức chế quá trình tổng hợp Protein khiến chuỗi polypeptide được tạo thành không hoàn chỉnh hay không thể hoàn vậy, tế bào vi khuẩn bị tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát triển. Lincosamid, Cloramphenicol và Aminoglycoside là các kháng sinh tiêu biểu của nhóm này và sẽ có tác dụng diệt khuẩn nếu sử dụng ở nồng độ cao – Kháng sinh ức chế tổng hợp nhân tế bào Kháng sinh ức chế tổng hợp nhân tế bào Do tác động lên quá trình tổng hợp nhân tế bào- axit nucleic đại phân tử sinh học có vai trò truyền đạt thông tin di truyền khiến cho vi khuẩn không thể phát triển và tồn tại. Vì vậy các kháng sinh nhóm này thường có tác dụng diệt khuẩn với đại diện là nhóm Macrolide. Kháng sinh ức chế các quá trình trao đổi chất như acid folic làm cho màng sinh chất mất phương hướng hoạt động do đó tế bào không thể phát triển và duy trì sự sống. Polymycin là kháng sinh tiêu biểu của nhóm này bạn có thể biết. – Phân loại kháng sinh tổng hợp Ngoài các cách phân loại trên, hiện nay dựa vào công thức, nguồn gốc, cơ chế tác dụng, các tác dụng, các thuốc kháng sinh hiện nay có thể được phân loại tổng hợp thành các nhóm sau Nhóm B-lactamin gồm các penicilin và cephalosporin Nhóm amynoglucozit Nhóm macrolid, gồm macrolid thực thụ và các macrilid họ hàng lincosamid, rifamicin, vancomycun, novobion,… Nhóm phenicol Nhóm tetracyclin Nhóm kháng sinh đa peptid Nhóm kháng sinh chống nấm Nhóm thuốc hóa học trị liệu có cơ chế tác dụng như kháng sinh. Gồm nhóm quinolin, 5-nitroidazol, nitrofusan, các sulphamid và những thuốc có tác dụng kìm hãm virus. * Nguyên tắc phối hợp kháng sinh Quá trình sử dụng kháng sinh trong thú y hoàn toàn có thể sử dụng độc lập cũng đã có thể đem lại hiệu quả điều trị. Tuy nhiên trong một số trường hợp cần phối hợp sử dụng 2 hoặc nhiều loại kháng sinh với nhau để tăng hiệu quả điều trị cho vật nuôi và hạn chế hiện tượng kháng thuốc. Dưới đây là một số nguyên tắc phối hợp kháng sinh trong ngành thú y bạn cần biết để có thể đạt hiệu quả cao và an toàn cho vật nuôi. Phối hợp 2 kháng sinh nhóm diệt khuẩn để tăng cường tác dụng. Một số kháng sinh nhóm diệt khuẩn Beta Lactam, Aminoglycosid, Polypeptide, Fluoroquinolon, Rifamycin. Phối hợp 2 kháng sinh nhóm kìm khuẩn đem lại tác dụng cộng dồn Kháng sinh hãm khuẩn vi khuẩn như Tetracyclin, Lincosamid, Macrolid, Phenicol. Không phối hợp kháng sinh kìm khuẩn và kháng sinh diệt khuẩn với nhau vì sẽ sinh ra tác dụng đối kháng. Ví dụ sự kết hợp hợp giữa kháng sinh Penicillin hoặc Ampicillin với Tetracyclin/Macrolid hoặc Quinolon và Chloramphenicol Nội dung tóm tắt1 Thực trạng sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi2 Tác hại của việc lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi3 Hướng giải quyết vấn đề lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi4 Làm sao để sử dụng kháng sinh cho thú y được hiệu quả? Sử dụng kháng sinh sớm ngay khi xuất hiện dấu hiệu Dùng đủ liệu Lựa chọn kháng Sử dụng đúng liều lượng và thời Kết hợp thuốc trợ Dừng sử dụng thuốc trước khi giết mổ5 3 điều cần tránh khi sử dụng kháng sinh trong thú y6 Một số lưu ý khi sử dụng kháng sinh cho vật nuôi7 Phân loại thuốc kháng sinh trong thú Kháng sinh ức chế sự tổng hợp thành tế Kháng sinh ức chế tổng hợp Kháng sinh ức chế tổng hợp nhân tế Kháng sinh ức chế các quá trình trao đổi chất Kháng sinh trong thú y là chất có nguồn gốc sinh học giúp cơ thể vật nuôi chống lại vi khuẩn hoặc ức chế sự phát triển của vi khuẩn. Chúng thường tác động trực tiếp ở cấp độ phân tử và gây ra các phản ứng ức chế sự phát triển của vi khuẩn. Hiện nay, ngành chăn nuôi đang phát triển các loại kháng sinh khác nhau để bảo vệ đàn gia súc, gia cầm khỏi các bệnh truyền nhiễm. Theo dõi Việt Anh Viavet để tìm hiểu về Nguyên tắc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi thú y Thực trạng sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi Theo nghiên cứu năm 2017 của Cục Chăn nuôi Bộ NN-PTNT, người chăn nuôi ở Vĩnh Phúc và Thái Nguyên vẫn sử dụng kháng sinh thường xuyên, với tần suất từ ​​1 đến 3 lần/tháng. Ngoài ra, nông dân sử dụng vắc-xin cho gia cầm thường xuyên hơn từ 1,5 đến 2 lần so với khuyến cáo. Theo nghiên cứu của Viện Sức khỏe môi trường và Phát triển bền vững, khoảng 50% hộ gia đình cho biết họ làm theo lời khuyên của cán bộ, bác sĩ thú y và nhà phân phối thuốc thú y về việc sử dụng kháng sinh cho vật nuôi. Số còn lại dùng kháng sinh thú ý theo kinh nghiệm. Các loại kháng sinh được sử dụng nhiều trong các trang trại chăn nuôi là amoxicillin, tylosin, tetracycline, lincomycin, gentamicin, enrofloxacin và neomycin. Tác hại của việc lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi Mỗi năm, người chết vì kháng thuốc kháng sinh ở Mỹ và Châu Âu. Có tới 100 người chết mỗi ngày ở Thái Lan do kháng thuốc kháng sinh. Một trong những nguyên nhân chính của vấn đề này là do việc sử dụng kháng sinh tràn lan trong chăn nuôi. Vì lợi nhuận, nhiều trang trại đã không ngần ngại sử dụng kháng sinh cấm với số lượng lớn. Chúng được trộn trực tiếp vào thực phẩm mà không quan tâm đến sức khỏe người tiêu dùng. Kết quả là dư lượng thuốc trong các sản phẩm thịt. Người sử dụng thực phẩm này có thể ảnh hưởng đến gan, thận và nhiều dị tật khác trong cơ thể. Hậu quả nghiêm trọng của việc lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi nói riêng là tình trạng kháng kháng sinh. Khi các loại thuốc cũ hết tác dụng, các loại thuốc mới không có sẵn và vi khuẩn gây bệnh có thể trở thành đại dịch. Tuy nhiên, người tiêu dùng không thể nhìn thấy thực phẩm tồn dư kháng sinh bằng mắt thường. Cuộc chiến chống sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi vẫn còn rất phức tạp. Xem thêm Thuốc bột kháng sinh uống, trộn thức ăn Hướng giải quyết vấn đề lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi Nâng cao chất lượng thực phẩm có nguồn gốc động vật và tránh tình trạng kháng kháng sinh ở người phải bắt đầu từ nông dân. Chúng cần được phổ biến và giáo dục. Ưu điểm của kháng sinh. Tác hại khi sử dụng kháng sinh không đúng chủng loại, liều lượng, thời gian. Nhiệm vụ chính là nâng cao nhận thức về việc sử dụng thuốc kháng sinh. nguy cơ kháng kháng sinh, sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi và giám sát dư lượng kháng sinh trong thức ăn… từng bước hạn chế sử dụng kháng sinh và giảm dần sử dụng kháng sinh kích thích tăng trưởng vật nuôi. Làm sao để sử dụng kháng sinh cho thú y được hiệu quả? Sử dụng kháng sinh sớm ngay khi xuất hiện dấu hiệu bệnh Nguyên tắc phối hợp kháng sinh trong thú y là để dùng đúng thuốc cần chẩn đoán đúng bệnh. Ngày đầu dùng thuốc nên dùng theo nguyên tắc từ cao đến thấp có thể tăng liều 1,5-2 lần. Dùng đủ liệu trình Nguyên tắc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi là không tự ý thay đổi hoặc dừng thuốc nếu chưa dùng hết liệu trình. Một lần điều trị thường kéo dài khoảng 3-5 ngày. Nếu bệnh không khỏi thì không nên dùng quá 10 ngày hoặc ngưng một đợt từ 5-7 ngày rồi mới dùng đợt khác. Lựa chọn kháng sinh Nếu sử dụng đúng loại kháng sinh trong chăn nuôi cho từng bệnh thì hiệu quả điều trị sẽ rất cao. Các nhà sản xuất nói mỗi loại kháng sinh tổng hợp phòng được 3-5 bệnh khác nhau nhưng thực tế chỉ có tác dụng phòng 1-2 bệnh đầu tiên ghi trên nhãn thuốc của nhà sản xuất. Các bệnh còn lại phòng ngừa và hạn chế. Do đó, người chăn nuôi nên theo dõi vật nuôi và lựa chọn loại kháng sinh phù hợp dựa trên các triệu chứng. Giả sử thú cưng của bạn có dấu hiệu mắc bệnh về đường hô hấp, chúng tôi khuyên bạn nên chọn loại kháng sinh có chứa các thành phần như tylosin, lincomycin, florfenicol và doxycycline. Nếu thú cưng của bạn có vấn đề về tiêu hóa nên chọn loại kháng sinh có chứa các thành phần như enrofloxacin, norcoli, ampicillin, colistin… Sử dụng đúng liều lượng và thời gian Nếu không có dấu hiệu bệnh, tiếp tục dùng kháng sinh ít nhất một ngày nữa để đảm bảo con vật khỏi bệnh hoàn toàn, bệnh không tái phát và tránh sinh vật kháng thuốc. Kết hợp thuốc trợ lực Nếu dùng kháng sinh kết hợp với các chất kích thích B-complex, vitamin C, điện giải, men tiêu hóa… cần được chăm sóc, cho ăn đầy đủ để vật nuôi mau hồi phục. Dừng sử dụng thuốc trước khi giết mổ Để tránh tồn dư kháng sinh trong sản phẩm động vật, cần ngừng sử dụng thuốc trước khi giết mổ theo hướng dẫn của nhà sản xuất. 3 điều cần tránh khi sử dụng kháng sinh trong thú y Không tự ý phối hợp kháng sinh khi chưa có sự giám sát của bác sĩ thú y. Hiệu ứng giao thoa có thể xảy ra giữa các loại kháng sinh khác nhau làm ảnh hưởng nặng nề đến thể trạng con vật, giảm khả năng điều trị, một số trường hợp có thể gây phản tác dụng nên dùng nhiều loại thuốc phối hợp chúng lại không hiệu quả. Không sử dụng các loại thuốc bị cấm. Tăng kích thích tố động vật. Không sử dụng bừa bãi lượng lớn kháng sinh để phòng bệnh cho vật nuôi. Một số lưu ý khi sử dụng kháng sinh cho vật nuôi Khi dùng kháng sinh để điều trị cho động vật, nên cho uống hoặc tiêm hai lần mỗi ngày sáng và chiều cách nhau 10-12 giờ. Thuốc uống phải uống trong vòng 2 giờ mới có hiệu quả. Sau giai đoạn này, thuốc dần mất đi phẩm chất của nó. Nếu người chăn nuôi có sử dụng kháng sinh thì phải ghi chú vào sổ trang trại để tiện cho việc truy xuất nguồn gốc sau này. Xem thêm Kháng sinh trimethoprim được sử dụng trong thú y như thế nào? Phân loại thuốc kháng sinh trong thú y Mặc dù có nhiều cách phân loại thuốc kháng sinh trong thú y nhưng các nhà dinh dưỡng vật nuôi thường phân loại chúng theo 4 đặc điểm chính phổ tác dụng phổ rộng và phổ hẹp; nguồn gốc tổng hợp và bán tổng hợp; cơ chế tác dụng. Sau khi phân loại theo cơ chế hoạt động, thuốc kháng sinh vật nuôi được chia thành bốn loại chính. Kháng sinh ức chế sự tổng hợp thành tế bào Loại kháng sinh này có tác dụng diệt khuẩn thông qua sự ức chế cạnh tranh của các enzyme transpeptidase ngăn chặn sự liên kết của thành tế bào, ngăn chặn quá trình tổng hợp thành tế bào và làm chết tế bào. Nhóm kháng sinh beta-lactamase và glycopeptide 2 là điển hình của loại kháng sinh này. Kháng sinh ức chế tổng hợp protein Tổng hợp protein là chu trình cần thiết để tế bào hình thành sự sống và quá trình dịch mã axit amin thành chuỗi polypeptide được coi là hoạt động trung tâm. Thuốc kháng sinh thú y ức chế quá trình này, dẫn đến sự hình thành chuỗi polypeptide không đầy đủ hoặc không đầy đủ. Từ đó, tế bào vi khuẩn bị tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát triển của chúng. tiêm thuốc kháng sinh cho gà Nhóm kháng sinh như lincosamid, chloramphenicol, aminoglycosid có thể tiêu diệt vi khuẩn hoàn toàn khi sử dụng ở nồng độ cao. Kháng sinh ức chế tổng hợp nhân tế bào Các kháng sinh cản trở quá trình tổng hợp nhân của tế bào thường xuất phát từ cơ chế ức chế acid nucleic. Nó là một chất trùng hợp sinh học có trong hầu hết các tế bào sống và tham gia vào quá trình truyền thông tin di truyền. Vi khuẩn không thể phát triển và tồn tại nếu axit nucleic bị ức chế và không thể hoạt động bình thường. Tác động trực tiếp lên thành phần quan trọng này, vi khuẩn có khả năng diệt khuẩn hoàn toàn, điển hình là nhóm macrolid. Kháng sinh ức chế các quá trình trao đổi chất Axit folic cũng cần thiết cho vòng đời của tế bào vi khuẩn. Không có axit folic, màng sinh chất trở nên mất phương hướng và tế bào không thể sinh sôi và duy trì sự sống. Polymyxins phá vỡ màng tế bào và gây chết tế bào là một nhóm kháng sinh thú y có thể trung hòa độc tố. Hy vọng những thông tin trên chúng tôi cung cấp hữu ích đối với bạn và bạn đã hiểu được những nguyên tắc sử dụng kháng sinh trong thú y.

nguyên tắc phối hợp kháng sinh trong thú y